Các nhà khoa học đang nỗ lực tạo nên những phương pháp điều trị đột phá cho bệnh ung thư tuyến tụy, một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất đối với cả nam giới và phụ nữ. Ung thư tuyến tụy thường không có triệu chứng gì cho đến khi ở giai đoạn cuối. Phẫu thuật là lựa chọn duy nhất, song hầu hết…
Các nhà khoa học đang nỗ lực tạo nên những phương pháp điều trị đột phá cho bệnh ung thư tuyến tụy, một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất đối với cả nam giới và phụ nữ.
Ung thư tuyến tụy thường không có triệu chứng gì cho đến khi ở giai đoạn cuối. Phẫu thuật là lựa chọn duy nhất, song hầu hết bệnh nhân đều không thể phẫu thuật được do vị trí của khối u hoặc do khối u đã di căn. Hơn nữa, hầu hết những bệnh nhân phẫu thuật đều tái bệnh và sau đó tử vong do ung thư tuyến tụy.
FDA đã phê chuẩn 3 phương pháp điều trị ung thư tuyến tụy giai đoạn cuối trong vòng 20 năm qua để giúp bệnh nhân sống lâu hơn: (1)gemcitabine; (2) erlotinib kết hợp với gemcitabine; và (3) nab-paclitaxel kết hợp với gemcitabine.
Vị trí của tuyến tụy
Bác sĩ Abhilasha Nair, chuyên khoa ung bướu của FDA, nghiên cứu các bệnh ung thư hệ tiêu hóa, bao gồm dạ dày, tuyến tụy và ruột, cho biết: “Ngày nay chúng ta biết nhiều hơn về dạng ung thư này. Chúng ta biết nó thường khởi phát ở ống tụy và gen KRAS bị đột biến ở các mẫu khối u của hầu hết bệnh nhân ung thư tuyến tụy”.
Căn bệnh gây chết người
Ung thư tuyến tụy là nguyên nhân gây tử vong do ung thư thứ 4 ở Hoa Kỳ. Theo Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ, hàng năm, khoảng 46.420 người được chẩn đoán mắc bệnh và 39.590 người tử vong do bệnh này. Tỉ lệ sống sót sau 5 năm chỉ khoảng 5%. Nếu không chữa trị, bệnh nhân tử vong rất nhanh. Phương pháp điều trị bao gồm hóa trị, đối với một số bệnh nhân có thể phẫu thuật và/hoặc xạ trị.
Các triệu chứng thường gặp nhất khiến bệnh nhân đi khám là vàng da, đau lưng và sụt cân không rõ nguyên nhân. Các triệu chứng khác bao gồm khởi phát bệnh tiểu đường hoặc buồn nôn, nôn mửa, các thay đổi trong ruột, mệt mỏi, yếu ớt và không có cảm giác ngon miệng.
Điều trị nhắm vào các đột biến
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thư tuyến tụy bao gồm hút thuốc, viêm tụy (bệnh viêm tụy mãn tính, đặc trưng bởi các cơn đau bụng, đau mạn tính, sụt cân và tiêu chảy), tiểu đường kéo dài, các thay đổi về gen (đột biến BRCA1 và BRCA2) và hội chứng Lynch (một chứng rối loạn di truyền làm tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư).
Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu phát triển các loại thuốc nhắm vào đột biến KRAS tìm thấy trong các khối u tuyến tụy. Bác sĩ Nair cho biết: “Tìm ra đúng thuốc nhắm vào đúng đột biến sẽ là bước ngoặt mới trong điều trị các bệnh nhân ung thư tuyến tụy. KRAS là một mục tiêu rất khó tiếp cận. Chúng ta cần phải tìm hiểu thêm về nó để tìm ra cách khắc phục.”
HÌnh ảnh khối ung thư
Để đạt được điều này, các nhà khoa học phải nghiên cứu các tế bào trong khối u để tìm hiểu vì sao ung thư tuyến tụy kháng hầu hết các thuốc hóa trị hiện có. “Thứ gì đó ở khuôn nền ngoại bào (khoảng mô ở giữa các tế bào ung thư) có thể ngăn chặn ảnh hưởng của hóa trị đối với các tế bào ung thư”, Nair cho biết. Rất nhiều nghiên cứu tập trung vào môi trường của khối u, xác định các phương pháp vượt qua sự phòng thủ của khối u, và cải thiện việc đưa hóa chất trực tiếp vào các tế bào ung thư.
Các nhà khoa học cũng đang tìm hiểu về các liệu pháp miễn dịch, và họ đã thành công trong việc chữa ung thư da hắc tố và một số loại ung thư khác. Với liệu pháp miễn dịch, các chuyên gia y tế có thể tăng cường sự phòng thủ của chính cơ thể đối với ung thư.
Bác sĩ Nair cho biết, “Trước đây, tiên lượng cho các bệnh nhân ung thư da hắc tố đều rất xấu. Song với sự ra đời của các liệu pháp cải thiện hệ miễn dịch của chính bệnh nhân, tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Chúng tôi hi vọng các nghiên cứu mới về ung thư tuyến tụy sẽ cho chúng ta kết quả tương tự trong cuộc chiến chống lại căn bệnh nguy hiểm này.”
P Hà (Theo FDA 1/2015)
Theo http://suckhoedoisong.vn/